António Simões da Costa (sinh ngày 14 tháng 12 năm 1943), hay còn gọi là Simões, là một cựu cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha chơi ở vị trí tiền vệ chạy cánh trái. Hãy cùng tìm hiểu về António Simões là ai trong bài viết sau nhé.
Tiểu sử Antonio Simões
Họ và tên | António Simões da Costa | ||
---|---|---|---|
Ngày sinh | 14 tháng 12 năm 1943 (80 tuổi) | ||
Nơi sinh | Corroios, Bồ Đào Nha | ||
Chiều cao | 1,67 m (5 ft 6 inch) | ||
(Các) vị trí | cầu thủ chạy cánh | ||
Sự nghiệp tuổi trẻ | |||
1957–1959 | Almada | ||
1959–1961 | Benfica | ||
Sự nghiệp cao cấp* | |||
Năm | Đội | Trận đấu | Bàn thắng |
1961–1975 | Benfica | 312 | (46) |
1975–1976 | Boston Minutemen | 27 | (5) |
1975–1976 | Estoril | 6 | (0) |
1976–1977 | San Jose Earthquakes | 33 | (0) |
1977–1978 | União Tomar | 16 | (1) |
1978 | New Jersey Americans | 4 | (0) |
1979 | Dallas Tornado | 6 | (1) |
1979–1980 | Detroit Lightning | 2 | (0) |
1980–1981 | Chicago Horizon | 20 | (7) |
1981–1982 | Kansas City Comets | 3 | (0) |
Tổng cộng | 429 | (60) | |
Sự nghiệp quốc tế | |||
1962–1973 | Bồ Đào Nha | 46 | (3) |
Sự nghiệp quản lý | |||
1982–1984 | Phoenix Inferno | ||
1984–1985 | Las Vegas Americans | ||
1987–1991 | Austin Sockadillos | ||
2003–2004 | União Madeira | ||
2004–2005 | Lusitânia | ||
2008–2010 | Portugal Olympic | ||
2011–2014 | Iran | ||
2012–2014 | Iran B |
Anh trải qua 14 mùa giải chuyên nghiệp với Benfica, chơi 449 trận chính thức và ghi 72 bàn thắng. Vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, ông đại diện cho một số đội ở Hoa Kỳ và sau đó làm quản lý ở cả hai châu lục. Simões đã chơi hơn 40 lần cho Bồ Đào Nha, bao gồm cả việc xuất hiện tại World Cup 1966.
Sự nghiệp thi đấu câu lạc bộ
Benfica
Sinh ra ở Corroios, Seixal, Quận Setúbal, Simões gia nhập SL Benfica khi mới 15 tuổi và đã trở thành thành viên quan trọng của đội một chỉ hai năm sau đó, là một phần của đội đã giành được 10 chức vô địch Primeira Liga và một Cúp C1. Trong trận chung kết giải đấu thứ hai năm 1962, chiến thắng 5–3 trước Real Madrid, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất từng chinh phục giải đấu khi mới 18 tuổi 4 tháng. Simões rời Benfica vào cuối mùa giải 1974–75 sau khi vô địch giải đấu cuối cùng. Anh ấy đã đóng góp 26 trận không ghi bàn trong quá trình này.
Hoa Kỳ
Simões chuyển đến Hoa Kỳ ở tuổi 32, ký hợp đồng với Boston Minutemen của Giải bóng đá Bắc Mỹ. Anh ấy đã trải qua hai mùa giải ở thành phố trước khi chuyển đến trận động đất ở San Jose vào năm 1976, và sau đó là Dallas Tornado. Năm 1979, Simões gia nhập câu lạc bộ Giải bóng đá trong nhà lớn Detroit Lightning. Sau một mùa giải, anh chuyển đến Chicago Horizon, trước khi kết thúc sự nghiệp của mình với Kansas City Comets; anh ấy đã trở lại đất nước của mình hai lần trong thời gian trái mùa giải, đại diện cho GD Estoril Praia và UFCI Tomar trong thời gian ngắn.
Ngay sau khi từ bỏ bóng đá, Simões được thuê làm huấn luyện viên cho Phoenix Inferno của MISL. Ông bị sa thải vào tháng 3 năm 1984 và được thay thế bởi Ted Podleski, gia nhập Las Vegas American với tư cách trợ lý cho Alan Mayer sau đó và cũng rời đi vào tháng 1 năm 1985; năm 1989, ông là huấn luyện viên mùa giải trong nhà SISL của năm với Austin Sockadillos.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế
Theo các chuyên gia của Luongson TV thì Simões ra mắt đội tuyển quốc gia Bồ Đào Nha vào ngày 6 tháng 5 năm 1962, trong trận thua giao hữu 2-1 trước Brazil ở São Paulo. Anh là thành viên của đội đứng thứ ba tại FIFA World Cup 1966 ở Anh, ghi bàn thắng đầu tiên trong trận mở tỷ số vòng bảng trước cùng một đối thủ (thắng 3–1). Là người có 46 lần khoác áo đội tuyển với 3 bàn thắng, Simões đã bỏ lỡ Cúp Độc lập Brazil vì chấn thương.
Anh xuất hiện lần cuối vào ngày 13 tháng 10 năm 1973, trong trận hòa 2–2 trên sân nhà trước Bulgaria ở vòng loại World Cup 1974. Simões gia nhập ban huấn luyện Iran vào tháng 4 năm 2011, làm trợ lý cho người đồng hương Carlos Queiroz. Anh rời đi vào tháng 2 năm 2014 vì lý do cá nhân.
Phong cách chơi bóng của Simões
Là một cầu thủ chạy cánh nhỏ bé nổi tiếng với kỹ năng, sự sáng tạo và tạt bóng trên mức trung bình, có thể chơi bằng cả hai chân, Simões giữ kỷ lục cầu thủ trẻ nhất (18 tuổi 139 ngày) thi đấu và giành chiến thắng trong trận chung kết Cúp C1 châu Âu, khi anh xuất hiện cho đội tuyển Anh. Benfica gặp Real Madrid vào ngày 2 tháng 5 năm 1962.
Danh hiệu và thành tích
Benfica
- Primeira Divisão: 1962–63, 1963–64, 1964–65, 1966–67, 1967–68, 1968–69, 1970–71, 1971–72, 1972–73, 1974–75
- Taça de Bồ Đào Nha (4)
- Cúp C1 châu Âu: 1961–62
- Á quân Cúp Liên lục địa: 1961, 1962
Bồ Đào Nha
- Giải vô địch U18 châu Âu UEFA: 1961
- Hạng ba FIFA World Cup: 1966
Với bài viết về António Simões là ai cho thấy anh không chỉ được đánh giá cao về kỹ thuật chơi bóng mà còn về tính cách lãnh đạo. Điều này chứng minh rằng không chỉ thành công trên sân cỏ, Simões còn là một người đồng đội lý tưởng và người dẫn dắt mẫu mực trong đội bóng. Đừng quên theo dõi lịch thi đấu mới nhất của các giải đấu hấp dẫn trên thế giới tại https://www.luongson20.tv/lich-thi-dau/ nhé.
Ý kiến bạn đọc (0)